Câu hỏi 1: Vì sao nói Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt quyết định của cách mạng Việt Nam?
Trả lời:
Từ năm 1858, thực dân Pháp xâm lược và từng bước thiết lập chế độ thống trị rất tàn bạo, hà khắc và phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta, xã hội Việt Nam đã có những biến đổi lớn: Từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến; hai mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu trong xã hội ngày càng gay gắt. Đó là, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với đế quốc Pháp xâm lược và giữa nhân dân ta chủ yếu là nông dân với bọn địa chủ, phong kiến tay sai, chỗ dựa của thực dân Pháp. Nhiệm vụ chống đế quốc Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống bọn phong kiến tay sai là không tách rời nhau. Đó là yêu cầu của cách mạng Việt Nam. Với truyền thống yêu nước nồng nàn, nhân dân ta đã liên tiếp đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược và bọn phong kiến tay sai ở khắp mọi nơi, dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu và các nhà yêu nước đương thời theo nhiều khuynh hướng khác nhau. Song các phong trào đấu tranh đó đều thất bại, nguyên nhân chủ yếu là chưa tìm được con đường cứu nước đúng đắn, chưa có một lực lượng xã hội, một giai cấp tiên tiến và một tổ chức cách mạng chặt chẽ đủ sức lãnh đạo phong trào. Cách mạng Việt Nam đứng trước sự bế tắc và khủng hoảng về đường lối cứu nước. Giữa lúc đó, Nguyễn ái Quốc - người con ưu tú của dân tộc Việt Nam ra đi tìm đường cứu nước. Sau 10 năm bôn ba khắp năm châu bốn bể đã bắt gặp được chủ nghĩa Mác-Lênin và tìm được con đường cứu nước đúng đắn, Người nói: “Muốn cứu nước giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản". Đây là bước ngoặt đánh dấu sự chuyển biến quyết định mở đường thắng lợi cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Nguyễn ái Quốc đã truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam, sáng lập và trực tiếp huấn luyện Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, ra báo Thanh niên, xuất bản tác phẩm Đường Kách Mệnh để tuyên truyền, giáo dục bồi dưỡng, đào tạo cán bộ tiếp tục chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng.
Từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 2 năm 1930, tại Quảng Châu - Trung Quốc, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản được triệu tập dưới sự chủ trì và lãnh đạo của Bác Hồ. Hội nghị nhất trí thành lập một đảng thống nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua các văn kiện: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt do Nguyễn ái Quốc khởi thảo. Đó là cương lĩnh và điều lệ đầu tiên của Đảng...Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang ý nghĩa lịch sử như là Đại hội thành lập Đảng.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc trong thời đại mới; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác- Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử; là kết quả của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của các chiến sĩ cách mạng đứng đầu là Bác Hồ kính yêu của chúng ta.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng tỏ rằng: Giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng. Đó cũng là cột mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy chục năm đã được giải quyết. Từ đây, cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng Mác- Lênin chân chính với đường lối cách mạng khoa học và sáng tạo là cơ sở lý luận vững chắc đảm bảo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, đáp ứng đầy đủ yêu cầu của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và công cuộc phát triển của đất nước.
Câu hỏi 2: Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân ta giành chính quyền và bảo vệ nền độc lập như thế nào?
Trả lời:
Ngay từ khi mới ra đời, với đường lối cứu nước đúng đắn, Đảng ta đã quy tụ đoàn kết xung quanh mình tất cả các giai cấp và tầng lớp yêu nước không phân biệt dân tộc, tôn giáo xây dựng nên lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp trong cả nước, đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược và bọn phong kiến tay sai vừ sự nghiệp giải phóng dân tộc
Qua 15 năm lãnh đạo cách mạng (1930-1945với ba cao trào cách mạng lớn (1930-1931; 1936-1939; 1939-1945) khi thời cơ cách mạng đến Đảng đã phát động cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã giành lại nền độc lập dân tộc của dân tộc sau hơn 80 năm bị đô hộ. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa- Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Dân tộc ta bước sang một kỷ nguyên mới- kỷ nguyên độc lập, tự do tiến lên CNXH.
Mới ra đời, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã phải đối mặt với ba thứ giặc: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Vận mệnh của đất nước trước tình thế "ngàn cân treo sợi tóc". Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời đề ra những chủ trương, quyết sách đúng đắn, toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại. Đối với các thế lực thù địch, Đảng ta thực hiện sách lược mềm dẻo, lợi dụng mâu thuẫn phân hóa chúng. Đảng đã động viên được sức mạnh đại đoàn kết các dân tộc, củng cố, giữ vững chính quyền, đưa cách mạng vượt qua tình thế hiểm nghèo, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp.
Bất chấp mong muốn độc lập, hòa bình của chính phủ và nhân dân, mặc dù ta đã nhân nhượng, nhưng càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng có dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa, nhân dân ta phải đấu tranh để bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Đêm ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi toàn dân kháng chiến. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đồng loạt đứng lên với tinh thần "Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, bằng chiến thắng tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ (07/05/1954)
Chiến thắng Điện Biên Phủ ghi vào lịch sử dân tộc ta như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa của thế kỷ XX, góp phần phá vỡ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ, dẫn tới sự sụp đổ hoàn toàn chủ nghĩa thực dân.
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc được giải phóng, thực hiện quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Ở miền Nam, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đã phá Hiệp định Giơ-ne-vơ hòng chia cắt lâu dài đất nước ta. Đất nước tạm thời chia làm 2 miền, với hai chế độ chính trị - xã hội đối lập nhau. Đảng ta đã xác định con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam là tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược:
Một là, tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa vững chắc cho cách mạng cả nước.
Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Duới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã tiến hành hai cuộc cách mạng: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Từ năm 1965, khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc, cả nước ta tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta phải chiến đấu quét sạch nó đi”, “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua khó khăn, gian khổ, hy sinh, lần lượt đánh tan các chiến lược, chiến tranh của Đế quốc Mỹ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ở miền Bắc. Với cuộc tổng tiến công và nổi dậy màu xuan năm 1975 và thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, mở ra kỷ nguyên mới- kỷ nguyên độc lập thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của cuộc đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập của dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng làm sáng tỏ một chân lý: Trong điều kiện thế giới ngày nay, một dân tộc dù nhỏ bé, dưới sự lãnh đạo của một chính đảng Mác-Lênin, đoàn kết đứng lên, kiên quyết đấu tranh để giành độc lập dân chủ, có thể chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Câu hỏi 3: Đảng lãnh đạo nhân dân ta xây dựng xã hội mới (từ năm 1975 đến nay) như thế nào?
Trả lời:
Bước vào thời kỳ quá độ cả nước lên chủ nghĩa xã hội, cách mạng Việt Nam có những thuận lợi cơ bản, nhưng cũng gặp không ít khó khăn. Khó khăn lớn nhất là nền kinh tế sản xuất nhỏ, năng suất lao động thấp, hậu quả chiến tranh nặng nề để lại. Trong khi đó, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực bên ngoài bao vây, cám vận luôn tìm mọi cách phá hoại cách mạng nước ta. Bắt đầu cuối những năm 70 của thế kỷ XX, phong trào cộng sản, phong trào công nhân quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, đặc biệt là sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu. Tình hình đó tác động rất lớn đến sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Trong 10 năm đầu (1975- 1985), cách mạng Việt Nam đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, thu được những thành tựu quan trọng: chúng ta đã hoàn thành việc thống nhất đất nước về mọi mặt, đánh thắng các cuộc chiến tranh biên giới, bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa – xã hội, nhân dân ta đã có những cố gắng to lớn để khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, bước đầu bình ổn sản xuất và đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, những thành tựu kinh tế - xã hội đạt được còn thấp so với yêu cầu kế hoạch và công sức bỏ ra, nền kinh tế có mặt mất cân đối nghiệm trọng, tỷ lệ lạm phát cao quá mức, đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986) đã nghiêm khắc kiểm điểm, đặc bietj là khuyết điểm chủ quan duy ý chí trong lãnh đạo kinh tế. Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta.
Trong các nhiệm kỳ Đại hội VII (1991-1996), Đại hội VIII (1996-2001), Đại hội IX (2001- 2006), Đại hội X (2006 – 2011), Đại hội XI (2011 – 2015), Đảng ta không ngừng tổng kết thực tiễn để phát triển, hoàn thiện đường lối đổi mới và lãnh đạo nhân dân ta phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo thực hiện đường lối đổi mới. Đại hội lần thứ XI của Đảng khẳng định: những thành tựu đạt được trong 20 năm thực hiện Cương lĩnh là to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, quốc phòng an ninh được giữ vững, vị trí nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao, tạo thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên.
Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, Đảng ta cũng còn có mặt, có lĩnh vực yếu kém. Đảng đã sơm phát hiện để có biện pháp sửa chữa đúng đắn. Đảng công khai phê bình và tự phê bình trước nhân dân, quyết tâm sửa chữa những khuyết điểm, tạo được niềm tin trong nhân dân, được nhân dân thừa nhận. Đảng là người lãnh đạo chân chính, duy nhất, là đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Câu hỏi 4: Vì sao nói sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam?
Trả lời:
1. Sự lãnh đạo của Đảng đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Cách mạng giải phóng dân tộc nhằm đánh đổ chủ nghĩa thực dân giành độc lập dân tộc, thiết lập chính quyền của nhân dân. Trong thời đế quốc chủ nghĩa, khi giai cấp tư sản vừa bóc lột công nhân ở chính quốc, vừa bóc lột nhân dân thuộc địa, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản”.
Đảng của giai cấp vô sản các nước thuộc địa nắm lấy và giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc gắn với phong trào giải phóng dân tộc và phong trào cách mạng thế giới.
Đảng cộng sản Việt Nam là người duy nhất có thể thực hiện được nhiệm vụ đó vì Đảng tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân đi theo mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy.
Vì vậy, có thể nói cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là sự lựa chọn của lịch sử Việt Nam, của toàn dân tộc Việt Nam. Thắng lợi của cách mạng tháng tám năm 1945 trước hết là sự thắng lợi của đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng ta.
2. Sự lãnh đạo của Đảng đáp ứng với yêu cầu bảo vệ độc lập dân tộc và phát triển đất nước.
Lênin khẳng định: Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn.
Sau thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng cộng sản là lực lượng duy nhất có thể tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân bảo vệ thành quả của cách mạng. Vì Đảng là những người tiên tiến của giai cấp và dân tộc, trung thành và kiên định với lợi ích của dân tộc, sẵn sàng hy sinh vì lợi ích của dân tộc nên được nhân dân tin và đi theo.
Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, Đảng cộng sản Việt Nam có khả năng to lớn để lãnh đạo nhân dân xây dựng xã hội mới, vì con đường cách mạng do Đảng lãnh đạo phù hợp với xu thế phát triển của thời đại và quy luật phát triển của xã hội. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, lợi ích của dân tộc Việt Nam, lợi ích của nhân dân tiến bộ trên thế giới.
Lịch sử cách mạng Việt Nam cận, hiện đại đã chứng tỏ không có một tổ chức chính trị nào có thể thay thế được vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Thực tế trong đấu tranh giành và giữ chính quyền, có những lực lượng chính trị tham gia cùng với Đảng, nhưng khi cách mạng gặp khó khăn, họ đều chùn bước. Chỉ có Đảng cộng sản Việt Nam trung thành với lợi ích của giai cấp vô sản, của dân tộc, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì lợi ích đó. Biết bao Đảng viên và quần chúng của Đảng đã suốt đời phấn đấu, hy sinh vì lý tưởng cao cả, vì độc lập tự do của Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội. Rõ ràng, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Câu hỏi 5: Những kinh nghiệm của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam là gì?
Trả lời:
Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo Nghị quyết Đại hội X, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 01/2011) rút ra một số kinh nghiệm sau đây:
Một là: trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào, phải kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đổi mới toàn diện, đồng bộ với những bước đi thích hợp. Tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn với chú trọng xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, giữ vững truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc. Mở rộng, phát huy dân chủ phải gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương và ý thức trách nhiệm của mỗi công dân, cơ quan đơn vị, doanh nghiệp và cả cộng đồng.
Hai là: Phải thực sự coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền vững, nâng cao chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế, đồng thời duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý, giữ vững, ổn định kinh tế vĩ mô. Tăng cường huy động các nguồn lực trong và ngoài nước, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả các nguồn lực, đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế. Phát triển lực lượng sản xuất đồng thời xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp. Củng cố và tăng cường các yếu tố, đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế.
Ba là: phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là trong tình hình kinh tế khó khăn, suy giảm; gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, củng cố quốc phòng an ninh, tăng cường quan hệ đối ngoại, thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là: chăm lo củng cố xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Thật sự phát huy dân chủ, giữ vững nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương, đoàn kết thống nhất, gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa vào dân để xây dựng Đảng – xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên vững vàng về chính trị, tư tưởng, trong sáng về đạo đức, lối sống, có sức chiến đấu cao, thành thạo về chuyên môn, nghiệp vụ, phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, tích cực chủ động sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Năm là: Trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo phải rất nhạy bén, kiên quyết, sáng tạo, bám sát thực tiễn đất nước, chú trọng công tác dự báo, kịp thời đề ra các giải pháp phù hợp với tình hình mới, tăng cường công tác tuyên truyền, tạo sự đồng thuận cao, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội.